Thuế giá trị gia tăng Trường hơp chủ hàng mua hàng từ người bán tại Việt Nam nhưng được người bán chỉ định nhận hàng từ nước ngoài thì cơ quan hải quan chấp nhận hóa đơn do người bán tại Việt Nam phát hành cho chủ hàng
Kính gửi Quý Cơ quan
Công ty chúng tôi là bên bán (Bên A) và công ty bên mua (Bên B) đều là hai công ty tại Việt Nam ký hợp đồng mua bán chỉ định Bên mua (Bên B) nhận hàng từ nước ngoài như sau:
Chúng tôi ký hợp đồng mua hàng hóa với bên bán hàng hóa (Bên C) ở nước ngoài. Bên C chịu trách nhiệm giao hàng đến cửa khẩu đường hàng không ở Việt Nam.
Chúng tôi đã thực hiện hợp đồng, đã giao hàng từ nước ngoài và Bên B đã hoàn thành thủ tục nhập khẩu hàng hóa với Chi cục Hải quan tại cửa khẩu đường không bao gồm nộp thuế nhập khẩu, nộp thuế giá trị gia tăng 10% và đã thông quan hàng hóa.
Chúng tôi đã tham khảo và thực hiện theo:
- Điểm b, Khoản 2, Điều 16 Thông tư 39/2018/TT-BTC ngày20/04/2018 và Thông tư 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015
- Điểm a, Khoản 2, Điều 9 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính
- Công văn số 399/GSQL-GQ1 CỤC GSQL VỀ HẢI QUAN – Tổng Cục Hải Quan ngày 27/02/2017
Theo qui định tại Điểm b, Khoản 2, Điều 16 Thông tư 39/2018/TT-BTC ngày20/04/2018 và Thông tư 38/2015/TT-BTC ngày 25/3/2015 của Bộ Tài chính thì “trường hợp chủ hàng mua hàng từ người bán tại Việt Nam nhưng được người bán chỉ định nhận hàng từ nước ngoài thì cơ quan hải quan chấp nhận hóa đơn do người bán tại Việt Nam phát hành cho chủ hàng”.
Theo Công văn 399/GSQL-GQ1 CỤC GSQL VỀ HẢI QUAN đã hướng dẫn giải thích về Điểm b, Khoản 2, Điều 16 Thông tư 38/2018/TT-BTC.
“Trường hợp Công ty TNHH Hafele Việt Nam mua hàng từ nước ngoài (Bên bán tại nước ngoài) bán cho khách hàng trong nước (Bên mua) đồng thời chuyển giao quyền sở hữu cho Bên mua ở ngoài lãnh thổ Việt Nam thì chủ hàng lúc này là Bên mua. Như vậy, cơ quan hải quan chấp nhận hóa đơn do người bán tại Việt Nam (trường hợp này là Công ty TNHH Hafele Việt Nam) phát hành cho chủ hàng để thực hiện thủ tục hải quan”
Chúng tôi đã phát hành hóa đơn cho chủ hàng (Bên B) hàng hóa với trị giá theo hợp đồng đã ký với thuế suất thuế giá trị gia tăng là 0% (không phần trăm). Hóa đơn này đã được Chi cục Hải quan tại cửa khẩu đường hàng không chấp nhận cho Bên B tiến hành khai báo mở tờ khai Hải quan, xác định trị giá hàng hóa nhập khẩu, Bên B nộp các loại thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng 10% trên giá trị hàng hóa theo hợp đồng ký giữa chúng tôi và Bên B.
Chúng tôi thực hiện theo quy định tại Điểm a, Khoản 2, Điều 9 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế GTGT quy định thuế suất thuế GTGT 0% đối với hàng hóa bán mà điểm giao, nhận hàng hoá ở ngoài Việt Nam, cơ sở kinh doanh (bên bán) có tài liệu chứng minh việc giao, nhận hàng hóa ở ngoài Việt Nam như:
- Hợp đồng mua hàng hóa ký với bên bán hàng hoá ở nước ngoài;
- Hợp đồng bán hàng hoá ký với bên mua hàng;
- Chứng từ chứng minh hàng hóa được giao, nhận ở ngoài Việt Nam như: hóa đơn thương mại theo thông lệ quốc tế, vận đơn (hàng hóa được vận chuyển từ nước ngoài đến cửa khẩu đường hàng không ở Việt Nam), phiếu đóng gói, giấy chứng nhận xuất xứ.
- Chứng từ thanh toán qua ngân hàng gồm: chứng từ qua ngân hàng của cơ sở kinh doanh thanh toán cho bên bán hàng hóa ở nước ngoài;
- Chứng từ thanh toán qua ngân hàng của bên mua hàng hóa thanh toán cho cơ sở kinh doanh.
Hiện nay cán bộ phụ trách quản lý thuế tại Cơ quan thuế tại địa phương không chấp nhận hóa đơn với thuế suất thuế giá trị gia tăng 0% mà chúng tôi đã phát hành cho Bên B với lập luận hợp đồng mua bán giữa chúng tôi và Bên B là hai công ty trong nước mua bán hàng hóa giao tại Việt Nam không phải là hàng hóa giao từ nước ngoài; không phải là hàng hóa mà điểm giao, điểm nhận hàng ngoài Việt Nam.
Theo ngữ nghĩa tiếng Việt hàng hóa giao đến cửa khẩu (chưa hoàn thành thủ tục Hải quan nhập khẩu) thì vẫn là hàng hóa chưa được phép đưa vào Việt Nam, chỉ để tạm ở khu vưc kho hàng của cửa khẩu. Điều này phù hợp với hướng dẫn của Tổng cục Hải Quan trường hợp công ty chúng tôi mua hàng từ nước ngoài (Bên bán tại nước ngoài) bán cho khách hàng trong nước (Bên mua) đồng thời chuyển giao quyền sở hữu cho Bên mua ở ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Chúng tôi thực hiện hàng hóa chỉ giao đến cửa khẩu, chuyển giao quyền sỡ hữu cho Bên B ở ngoài lãnh thổ Việt Nam.
Cán bộ quản lý thuế lập luận rằng nghiệp vụ Hải quan chấp nhận hóa đơn của chúng tôi có thuế suất giá trị gia tăng là 0% chỉ là nghiệp vụ Hải quan hoặc Hải quan đã làm sai, còn theo cán bộ thuế thì chúng tôi phải phát hành hóa đơn với thuế giá trị gia tăng 10%.
Nếu làm theo hướng dẫn của cán bộ thuế là đúng thì dẫn đến hai trường hợp:
- Cơ quan hải quan đã làm sai, thất thoát thuế. Trị giá hàng hóa khai báo nhập khẩu phải bao gồm thuế giá trị gia tăng trên từng hàng hóa. Bên B phải nộp hai lần thuế giá trị gia tăng (một lần nộp thuế này cho Chi cục Hải quan và lần hai là nộp thanh toán cho Bên A). Điều này mâu thuẫn là cùng môt hàng hóa mà Bên mua phải chịu thuế giá trị gia tăng 2 lần. Nộp hai lần thuế là không hợp lý.
- Chúng tôi mua hàng từ Bên bán ở nước ngoài, chúng tôi đâu có nhập khẩu hàng, thực tế không nhận hàng thì chúng tôi đâu có đầu vào có nghĩa là hàng hóa chúng tôi chưa có mà phát hành hóa đơn tài chính có thuế giá trị gia tăng giống như mua bán trong nước thì vi phạm nghiệp vụ thuế xuất khống hóa đơn khi chưa nhập khẩu hay chưa có hóa đơn mua hàng của công ty trong nước.
Cán bộ thuế lập luận chỉ chấp nhận thuế GTGT 0% như tại ví dụ 48, Thông tư số 219/2013/TT-BTC Hàng hóa bán mà điểm giao, nhận hàng hóa ở ngoài Việt Nam.
Ví dụ 48: Công ty A và Công ty B (là các doanh nghiệp Việt Nam) ký hợp đồng mua bán dầu nhờn. Công ty A mua dầu nhờn của các công ty ở Sin-ga-po, sau đó bán cho Công ty B tại cảng biển Sin-ga-po. Trường hợp Công ty A có: Hợp đồng mua dầu nhờn ký với các công ty ở Sin-ga-po, hợp đồng bán hàng giữa Công ty A và Công ty B; chứng từ chứng minh hàng hóa đã giao cho Công ty B tại cảng biển Sin-ga-po, chứng từ thanh toán tiền qua ngân hàng do Công ty A chuyển cho các công ty bán dầu nhờn ở Sin-ga-po, chứng từ thanh toán tiền qua ngân hàng do Công ty B thanh toán cho Công ty A thì doanh thu do Công ty A nhận được từ bán dầu nhờn cho Công ty B được áp dụng thuế suất thuế GTGT 0%.
Ở ví dụ trên Công ty B mua và nhận hàng tại cảng biển Singapore thì ghi rõ công ty A được áp dụng thuế suất GTGT 0%.
Theo suy nghĩ của chúng tôi nếu như khi Công ty B vận chuyển dầu từ cảng Singapore về cửa khẩu ở Việt Nam thì vẫn sử dụng hóa đơn do Công ty A phát hành thuế GTGT 0%. Suy đoán của chúng tôi theo lập luận như cán bộ thuế sẽ là Bên B nhận hàng ở Singapore thì đồng ý hóa đơn GTGT 0% còn khi Bên B vận chuyển hàng về cửa khẩu Việt Nam thì Bên A phải xuất hóa đơn GTGT 10% vì là bán hàng giao tại Việt Nam.
Trở lại trường hợp của chúng tôi chỉ khác ví dụ 48 là hàng hóa được bán chưa bao gồm chi phí vận chuyển từ nước ngoài đến cửa khẩu Việt Nam (Bên B tự bỏ tiền thuê vận chuyển từ Singapore về cửa khẩu Việt Nam) và trường hợp của chúng tôi là hàng hóa được bán đã bao gồm phí vận chuyển từ nước ngoài về cửa khẩu Việt Nam.
Kính mong Quý cơ quan giải đáp hướng dẫn chi tiết về việc Chi cục Hải quan chấp nhận hóa đơn có thuế GTGT 0% trong khi cán bộ thuế yêu cầu chúng tôi phải phát hành hóa đơn thuế suất GTGT 10%. Hóa đơn thuế suất giá trị gia tăng 0% do chúng tôi phát hành cho Bên B là đúng hay sai?
Trân trọng kính chào
Dương Cương Nhơn